Giống như người Kinh, bánh chưng là món ăn đặc trưng, không thể thiếu trong cái Tết của người Mường. Trước Tết từ 2 đến 3 ngày, mọi người trong bản, trong họ tộc hẹn lịch nhau, tập trung gói bánh hết từ nhà này sang nhà khác. Thời gian này thực sự là ngày hội, tuy bận rộn nhưng rất vui của trai, gái trong bản mường.
Người Mường chuẩn bị ăn Tết rất kỹ. Trong nhiều thức, ngoài bánh chưng còn phải có món cá ướp chua. Cá đi bắt đem về mổ bụng moi ruột, cắt khúc nhỏ bằng hai ngón tay, bỏ đầu đuôi, ướp muối, đem xôi, sau đó thêm một ít cơm nguội, ít men rượu, trộn đều rồi cho vào hũ, được 15 ngày thì bỏ thính vào. Cá ướp chua để từ 3 đến 6 tháng, bày lên mâm là ăn ngay. Món này gắn liền với câu nói cửa miệng của người Mường: “Ăn một miếng cá chua, sáng mắt cả năm”.

5. Dân tộc Cơ Tu

Trước đây, người Cơ Tu thường ăn Tết riêng tức là Tết ăn cơm mới sau mỗi vụ mùa. Vài năm trở lại đây, người Cơ Tu Quảng Nam cũng ăn Tết cổ truyền như người Kinh nhưng vẫn giữ được nét văn hóa ngày Tết riêng biệt của dân tộc mình.Với người Cơ tu, ẩm thực ngày tết thì không thể không có rượu. Hai loại rượu truyền thống đặc sắc của người Cơ tu là rượu Tà vạt và rượu cần.

Bánh sừng trâu – món ăn truyền thống mang ý nghĩa tâm linh của người Cơ Tu.

Cùng với việc chuẩn bị các loại rượu, một loại bánh không thể thiếu được trong mâm lễ cúng dâng lên Giàng của người Cơ Tu là bánh Avị cuốt - bánh sừng trâu. Còn có tên gọi khác là bánh đót vì nó được gói bằng lá đót. Bánh được làm bằng nếp không có nhân, sau đó dùng lá đót để gói. Lá đót được dùng để gói bánh phải to bản, không bị rách được lau sạch sẽ. Gói xong thì cột bánh lại thành từng cặp và ngâm vào nước 2 - 3 tiếng rồi mới luộc bánh. Bánh chín tỏa hương thơm của nếp lẫn với mùi thơm của lá đót rất hấp dẫn. Bánh sừng trâu tuy đơn giản, dân dã nhưng mang một ý nghĩa tâm linh truyền thống và tượng trưng cho hình ảnh con trâu của người Cơ tu - con vật thiêng liêng, có ý nghĩa to lớn trong đời sống của người Cơ tu, biểu hiện cho sức mạnh của ngôi làng đồng thời là con vật hiến tế lên thần linh, là chiếc cầu nối của người Cơ tu với thần linh, trời đất trong các ngày lễ tết.

6. Dân Tộc Nùng

Người Nùng sống xen kẽ với người Tày, ngoài ra họ cũng rải rác ở một số tỉnh khác, như Bắc Giang... Hiện nay dân số Nùng vào khoảng gần 900.000 người. Người Nùng có nhiều nhóm, nhưng nhìn chung những nhóm cư trú xen kẽ người Tày thì phong tục Tết khá gần gũi với người Tày.

Bánh khảo, bánh tro làm nên hương vị Tết của người Nùng

Tuy không làm lễ tiễn ông Công, ông Táo lên trời ngày 23 tháng Chạp như người Kinh nhưng nhưng không vì thế người Nùng sửa soạn cho ngày tết kém phần rôm rả. Ngoài bánh chưng được coi là lễ vật - phần không thể thiếu để tiếp khách, họ còn có bánh cao (còn gọi là bánh khảo). Đa phần các nhà tự làm lấy, qua đó người khách có thể đánh giá được tài nghệ của gia chủ. Ngoài ra còn có bánh tro. Bánh được làm cầu kỳ, trong suốt như mật ong, khi ăn chấm với mật (mật được đun từ đường phên). Đây là món ăn được trẻ em đặc biệt ưa thích.

7. Dân tộc Dao

Thịt lợn chua

Tết đến, mỗi gia đình người Dao Tiền đều có vại thịt lợn chua (gọi là ò sui). Món ăn này rất bình dị, dân dã, nhưng không thể thiếu trong những ngày tết. Nguyên liệu chế biến sẵn trong nhà, gồm thịt lợn, muối tinh, và cơm tẻ nguội. Ò sui phải ăn kèm với lá lốt và lá prăng lẩu, chấm chanh ớt mới cảm nhận được hết sự đậm đà của thịt ướp muối, có vị mặn đậm của muối, vị ngon của thịt, vị chua của men cùng hương thơm của lá prăng lẩu và lá lốt xanh.

8. Dân tộc Tày

Món thịt lợn quay: là món ăn nổi tiếng của người Tày Văn Lãng (Lạng Sơn). Để làm món này, đồng bào thường chọn giống lợn ta xương nhỏ, thịt chắc và nạc nhiều, có trọng lượng từ 20 kg đến 30 kg. Lợn sẽ được quay chín bằng lửa đượm của than hoa, quay đều tay khoảng 3 tiếng cho chín đều. Khi lớp da ngoài khô, người ta lấy hỗn hợp mật ong pha giấm quết lên trên cho da lợn vàng rộm và giòn thơm…

Lợn quay Lạng Sơn

Thịt lợn quay khi ăn sẽ được chấm với thứ nước được lấy ra từ trong bụng của lợn với vị ngọt đậm đà, béo ngậy, dậy mùi thơm của lá và quả mắc mật. Thịt lợn quay khi ăn sẽ được chấm với thứ nước được lấy ra từ trong bụng của lợn với vị ngọt đậm đà, béo ngậy, dậy mùi thơm của lá và quả mắc mật.

Món khâu nhục: Đây cũng là món ăn được chế biến cầu kỳ từ thịt lợn mà người Tày ở Văn Lãng tiếp thu được của người Hoa trong vùng.

9. Dân tộc Tây Nguyên

Trong lễ Tết, ẩm thực của các dân tộc Tây Nguyên đều giống nhau, từ món thịt nướng cho đến rượu cần. Còn cách ăn uống và nấu nướng thế nào, thì đó là đặc điểm của mỗi dân tộc và của mỗi địa phương. Vào các ngày lễ Tết, cơm nếp được thay cơm gạo tẻ và được nấu theo cách thức của tổ tiên: cơm lam.

Cơm lam và thịt gà thui

Thịt là thực phẩm chủ yếu trong các món ăn ngày Tết. Người Tây Nguyên làm lông con vật bằng cách thui đốt. Họ không chế biến được các món ăn đặc biệt như ở miền xuôi. Đáng chú ý là món nướng và làm món như tiết canh, nem sống ở dạng thô sơ. Những món ăn này dùng để khoản đãi hay để dâng cúng thần linh.

10. Dân tộc Chăm và Khơ me

Trong cộng đồng người Chăm cũng như người dân tộc Khmer ở ĐBSCL, bánh gừng là loại bánh truyền thống độc đáo được dùng trong những ngày lễ hội, Tết cổ truyền... Bánh gừng, tiếng Chăm là Hargìnònya, còn người Khmer ở Sóc Trăng thì gọi Num-Khơ-Nhây. Gọi tên vậy vì bánh có hình dạng củ gừng.

Bánh củ gừng là một trong những lễ vật không thể thiếu trong dịp Tết với ý nghĩa dùng để dâng cúng tổ tiên với mong ước cuộc sống ngày càng ấm no và hạnh phúc.

Bánh củ gừng được làm từ hỗn hợp bột gạo nếp, đường, trứng gà và men rượu. Bột gạo nếp đem trộn với trứng gà cùng men rượu rồi đem giã quyện. Với bàn tay khéo léo của những người phụ nữ Chăm bánh sẽ được nặn thủ công thành hình giống củ gừng. Bánh củ gừng sau khi chiên dầu được nhúng vào nước đường để bánh bóng mịn và không bị cong. Công đoạn cuối cùng trong quá trình làm bánh củ gừng là gắp từng chiếc lên mâm phơi khô trong khoảng 10-15 phút để tăng độ giòn cứng./

Theo Foody