Turbine xung kích hai lần có phạm vi sử dụng cột nước từ 6÷150m, thường từ
10÷60m. Kết cấu của nó rất đơn giản, dễ chế tạo nên được sử dụng rộng rãi ở các trạm thủy điện nhỏ có lưu lượng bé, cột nước vừa, trục thường nằm ngang.

Turbine gồm có vòi phun tiết diện hình chữ nhật 4 được nối liền với đoạn ống
chuyển tiếp 8. Vòi có cơ cấu điều chỉnh lưu lượng gồm van phẳng 3 gắn với trục điều khiển 2 có tay quay vô lăng. Khi vô lăng quay, trục điều chỉnh sẽ tịnh tiến về phía trước hoặc phía sau làm cho tiết diện ra của vòi phun qua van bi thay đổi, nên lưu lượng vào turbine cũng
được thay đổi theo. Bánh xe công tác gồm các cánh cong 7 được gắn giữa trục turbine xuyên qua giữa bánh xe công tác gắn chặt với các đĩa bằng
then. Vỏ (buồng) 9 dùng để chắn không cho nước từ BXCT bắn ra ngoài. Hầm xả 5 và van một chiều có nhiệm vụ dẫn nước về hạ lưu.
Hình dáng BXC ồng sóc. Dòng nước t vòi phun tác dụng vào các cánh phía trên (nhận khoảng chừng 80% năng lượng của
hất, xong lại đi vào khoảng trống giữa BXCT rồi lại tác
dụng lần thứ hai vào cánh trước khi ra khỏi bánh xe công tác (nhận thêm 20÷30% phần năng lượng còn lại). Cũng chính vì thế ta gọi nó là turbine xung kích hai lần. Hiệu suất của loại turbine này qua van cửa tùy thuộc vào số cánh của BXCT và vào khoảng 80÷85%. Ưu điểm cơ bản của turbine xung kích hai lần là có thể chọn đường kính BXCT và số vòng quay turbine trong một phạm vi rộng mà không phụ thuộc vào lưu lượng, bởi vì lưu lượng
không chỉ phụ thuộc vào đường kính mà còn phụ thuộc vào chiều rộng BXCT nữa.
Như vậy có thể chế tạo turbine với đường kính bé để có vòng quay lớn, do vậy giảm giá thành chế tạo turbine và tổ máy thủy lực.