Tốc độ phát triển của ngành viễn thông trong một vài năm gần đây rất nhanh. Tại Việt Nam hiện đang hoạt động khoảng 70 doanh nghiệp viễn thông, trong đó 33 cung cấp thêm dịch vụ và 37 được cấp phép thiết lập hạ tầng mạng.

Theo một thống kê vào giữa năm 2017 thì mật độ thuê bao di động của chúng ta là 124 thuê bao/ 100 dân. Có được con số này là một sự nỗ lực của một số đơn vị cung cấp dịch vụ viễn thông qua chất lượng, giá cước. Bên cạnh một vài con số này là con số tăng trưởng doanh thu trong lĩnh vực viễn thông cũng nên nên nhắc tới, đó là năm 2016 tăng 7.5% so với năm 2015.

dien thoai ip grandstream

Nhưng một vấn đề của dịch vụ viễn thông Việt Nam đó là khả năng tăng số lượng thuê bao mới. thứ này dẫn tới “cuộc chiến” thị phần càng căng thẳng hơn nữa. Một trong những phương pháp mà một số tổ chức thường sử dụng nhất đó có thể là cung cấp khuyến mãi liên tục. Đây quả thực là một điều không khả quan chút nào. bởi lẽ nếu cứ tiếp tục cung cấp thêm dịch vụ dưới giá thành như hiện nay thì dần dần về lâu dài sẽ đi tới phá sản, gây ảnh hưởng tới các hoạt động khác. Do đó, giải pháp được đưa ra để có sự nâng cao bền vững đó cần nên thay đổi cách quản trị kinh doanh, quản trị công ty. Tức là đặt ra vai trò của chính một số công ty viễn thông. Tuy nhiên, bên cạnh đó là trách nhiệm của nhiều cơ quan nhà nước tạo thứ kiện thúc đẩy sự nâng cao của thị trường này.

tong dai dien thoai noi bo

Đối với thị trường viễn thông thì có thể hiểu một cách thức đầy đủ là gồm thị trường theo địa lý và thị trường theo sản phẩm. Và vấn đề chủ yếu để kiểm soát thị trường đó chính là phải tìm ra đâu là SMP, tức là đơn vị thống lĩnh thị trường.

Để có thể thứ tiết thị trường và quản lý cạnh tranh, cần hướng tới việc phòng tránh đa số công ty thông đồng với nhau, hoặc là lạm dụng vị thế thống lĩnh trên thị trường. Bên cạnh đó, nên phải phòng tránh những thương vụ mua bán sát nhập có thể làm giảm sức cạnh tranh trên thị trường. Đó cũng là lĩnh vực chính được thứ chỉnh bằng luật cạnh tranh, luật viễn thông tại một số quốc gia.

Thông thường có hai phương pháp quản lý cạnh tranh là hậu kiểm (ex post) và tiền kiểm (ex ante). ở tiền kiểm, cơ quan quản lý đưa ra một vài thứ kiện mà đa số nhà mạng viễn thông cần phải thỏa mãn trước khi cung cấp thêm dịch vụ. Với hậu kiểm, nó cho phép thị trường tự vận hành. Khi có hành vi vi phạm, nhà nước mới can thiệp và đơn vị phải khắc phục.