Các nhà khoa học hi vọng có thể làm sống dậy voi ma mút Woolly, dê rừng Pyrénées... đã tuyệt chủng hàng trăm, ngàn năm trước.
Cha con nhà khoa học George và Hendrik Poinar đã cống hiến một bước tiến quan trọng trong ngành sinh học khi là những người đầu tiên sáng tạo ra phương pháp mới chiết tách và phân tích trình tự ADN cổ đại. Tuy nhiên để tiêm những ADN được di truyền đó vào các sinh vật sống và nhân bản chúng hiện vẫn còn là một giai đoạn đầy thử thách.
Phương pháp hồi sinh này có thể giải thích đơn giản là tiêm bộ ADN của những loài đã tuyệt chủng vào một cá thể “họ hàng xa” của chúng hiện đang tồn tại; sau đó tiến hành đột biến gene của loài vật thí nghiệm để phù hợp tương đối với ADN của loài vật đã tuyệt chủng.
Cá thể mới tạo ra này tất nhiên sẽ không thể giống cách làm quần áo thủ công y như loài vật ban đầu, nhưng ít nhiều sẽ mang những đặc điểm đặc trưng nhất của giống loài mình trong quá khứ. Ví dụ như cặp ngà cong vút của voi ma-mút hay đôi nanh dài của loài hổ răng kiếm.
1. Dê rừng Pyrénées
Loài vật đầu tiên có tên trong danh sách là dê rừng Pyrénées, từng rất phổ biến trong dãy núi Cantábrica, miền Nam nước Pháp và ở phía Bắc dãy Pyrénées. Chú dê đực mang cặp sừng to và cong vòng ra hai bên, con cái thì sở hữu sừng ngắn và thẳng.
Kết quả là, sáu trong số bảy bào thai đã chết non ngay từ trong bụng mẹ, còn lại một bào thai cuối cùng được các nhà khoa học cứu vớt bằng cách mổ đẻ nhưng cũng không may mắn ra đi chỉ 10 phút sau khi được lấy ra ngoài. Các nhà nghiên cứu cho biết, họ sẽ không từ bỏ và sẽ tiếp tục tiến hành thử nghiệm khác.
2. Voi ma mút Woolly
Hiện tại voi ma mút Woolly (hay còn gọi là ma mua trang suc thu cong mút lông dài) là loài vật tiến được xa nhất trên con đường hồi sinh các loài động vật tuyệt chủng.
Ma mút Woolly từng sống ở vùng đảo Wrangel, Bắc Băng Dương 4.000 năm về trước. Các nghiên cứu về di truyền cho thấy, ma mút Woolly có họ hàng gần với voi châu Á.
Tuy nhiên quá trình này chắc chắn sẽ còn lâu dài, bởi theo dự tính phải mất đến 20 năm gieo cấy mới có thể tạo ra một cá thể voi mang 9% gene voi ma mút.
3. Bồ câu viễn khách
Bồ câu viễn khách (hay bồ câu rừng) là loài chim phổ biến ở Bắc Mỹ. Số lượng của chúng đã có lúc lên tới 3 tỷ con hoặc nhiều hơn, chỉ xếp sau loài châu chấu núi Rocky.
Bồ câu được biết đến là động vật có đời sống xã hội cao. Chưa từng có loài chim nào sống theo nhóm, đàn với số lượng lớn khủng khiếp đến vậy. Các nghiên cứu khoa học về giống chim này ghi lại rằng, đàn chim bồ câu viễn khách có lúc đông tới mức khi chúng bay đến đâu thì mặt đất nơi đó tối lại vì khuất bóng Mặt trời.
Nhưng sẽ mất thời gian dài, vất vả khó khăn nghiên cách làm mỹ phẩm handmade cứu để các chuyên gia có thể phân biệt được giữa gene của bồ câu viễn khách và bồ câu đá. Nhờ công nghệ nhân bản vô tính, chúng ta hi vọng rằng, loài chim này có cơ hội thứ hai sống sót.
4. Ếch dạ dày
Ấp trứng bằng dạ dày là đặc điểm khác thường của ếch thuộc giống Rheobatrachus ở Australia. Ếch cái đẻ trứng như bình thường, sau đó con đực sẽ phóng tinh trùng lên trứng để thụ tinh.
Tuy nhiên lúc này, con cái sẽ nuốt toàn bộ trứng đã thụ tinh vào bụng và ngưng hoạt động của enzyme phân hủy thức ăn trong dạ dày. Để đảm bảo an toàn tuyệt đối, nòng nọc sẽ phát triển trong dạ dày của mẹ. Sau một thời gian, ếch mẹ sẽ đẻ con ra bằng đường miệng.
Các nhà khoa học hiện đang cố gắng chuyển các phôi của loài ếch đã tuyệt chủng thành tế bào trứng của loài ếch Barried, nhưng cho đến nay, các phôi vẫn chưa phát triển thực sự đầy đủ.
5. Ngựa vằn Quagga
Ngựa Quagga là một phân loài đã tuyệt chủng của loài ngựa vằn đồng bằng từng sống tại Nam Phi. Ngựa Quagga có thân hình chỉ vằn nửa thân trước, còn nửa thân sau trông giống ngựa thường.
Thay vào đó, nhóm chọn giống ngựa vằn đồng bằng châu Phi hiện nay để cấy ADN, một con ngựa vằn thân nâu và ít sọc. Hy vọng rằng qua nhiều thế hệ biến đổi gene, một loài ngựa vằn nửa thân giống Quagga sẽ xuất hiện.
6. Chó sói Tasmanian
Chó sói Tasmanian là một loài thú ăn thịt có túi, bề ngoài giống như chó hoặc chó sói với những sọc vằn trên lưng giống như loài hổ với hình dạng đầu chó mình hổ.
Nhóm nghiên cứu dẫn đầu bởi Webb Miller - Đại học Penn State đã tìm thấy điểm tương đồng giữa bộ gene của chó sói Tasmania và Myrmecobius fasciatus - một loài thú ăn kiến bản địa có túi ở phía Tây Australia (bên phải). Tuy nhiên họ vẫn đang trong quá trình phân tích và chưa có kế hoạch cụ thể để hồi sinh loài này.